Lịch sử Tây Tạng – Sự cai trị của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa

Lịch sử Tây Tạng phong phú với tư cách là một quốc gia, tồn tại bên cạnh Trung Quốc trong nhiều thế kỷ. Năm 1950, chế độ Cộng sản Trung Quốc mới thành lập đã quyết định rằng Tây Tạng phải trở thành một bộ phận lâu dài của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và tiến hành một cuộc xâm lược.

Lịch sử trước khi bị Trung Quốc chiếm đóng và phân chia

Về mặt chính trị, Tây Tạng là một quốc gia cổ đại có lịch sử được ghi lại từ năm 127 trước Công nguyên. Sau khi thống nhất cao nguyên thành một quốc gia duy nhất, Đế chế Tây Tạng đạt đến đỉnh cao trong thế kỷ thứ 7 và 8, chinh phục các vùng của Nepal và Ấn Độ. Các vị vua Tây Tạng đã du nhập Phật giáo từ Ấn Độ từ thế kỷ thứ 6 đến thế kỷ thứ 9, và trở nên sùng bái các giáo lý bất bạo động và giác ngộ của nó đến mức họ bỏ bê đế chế quân sự của mình.

Bàn thờ Phật ở tu viện Samye
Bàn thờ Phật ở tu viện Samye

Vào thế kỷ 13, Tây Tạng đầu hàng người Mông Cổ để tránh một cuộc xâm lược và trở thành quốc gia phụ thuộc của Đế quốc Mông Cổ cho đến năm 1368. Trong triều đại nhà Minh của Trung Quốc (1368-1644), Tây Tạng hoàn toàn độc lập dưới sự cai trị của ba dòng họ ở Tây Tạng.

Năm 1642, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 5 vĩ đại thành lập chính phủ Ganden, với một cơ quan quản lý duy nhất do tu viện và thế tục phối hợp. Chính phủ này đã phi quân sự hóa Tây Tạng và chính thức hình thành nó thành một quốc gia tinh thần ủng hộ giáo dục Phật giáo trên hết và tự chủ về kinh tế.

Cung điện có lịch sử lâu đời ở Tây Tạng
Cung điện có lịch sử lâu đời ở Tây Tạng

Về đối ngoại, Đức Đạt Lai Lạt Ma trở thành cố vấn của tân hoàng đế Mãn Châu và Trung Quốc, và nhận được sự bảo vệ của thế giới đối với Tây Tạng, đổi lại ngài cung cấp những giáo lý tinh thần cho người Mãn Châu và duy trì hòa bình với người Mông Cổ và người Duy Ngô Nhĩ.

Năm 1904, người Anh xâm lược Tây Tạng, để áp đặt thương mại lên chính phủ Tây Tạng, và ngăn cản Tây Tạng đến dưới sự bảo hộ của Nga.

Trong các năm 1949 và 1950, Quân đội Giải phóng Nhân dân của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã xâm lược các tỉnh phía đông Amdo và Kham.

Năm 1951, khi các chính phủ thế giới, bao gồm Ấn Độ, Anh và Mỹ, từ chối xác nhận tình trạng quốc gia bất khả xâm phạm của Tây Tạng, chính phủ Trung Quốc đã áp đặt cái gọi là “Thỏa thuận 17 điểm về Giải phóng hòa bình cho Tây Tạng” đối với chính phủ Tây Tạng. Sự phản kháng đối với sự chiếm đóng của Trung Quốc đã leo thang, đặc biệt là ở miền đông Tây Tạng, và sự đàn áp của Trung Quốc đã gia tăng đáng kể.

Sự chiếm đóng của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa

Đối với Trung Quốc, chiếm hữu Tây Tạng cho phép tiếp cận với các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và cho phép nước này quân sự hóa biên giới quan trọng chiến lược với Ấn Độ. Với 40.000 quân Trung Quốc ở đất nước thưa thớt dân cư, chính phủ Tây Tạng - dưới sự lãnh đạo của Đức Đạt Lai Lạt Ma vẫn còn là một thiếu niên - đã buộc phải công nhận sự cai trị của Trung Quốc để đổi lấy những lời hứa bảo vệ hệ thống chính trị của Tây Tạng và Phật giáo Tây Tạng.

Trung Quốc đã không giữ lời hứa của mình và sự phản kháng của người Tây Tạng đang diễn ra mạnh mẽ vào ngày 10 tháng 3 năm 1959. Hàng trăm nghìn người Tây Tạng đã bao vây Cung điện Potala ở Lhasa vì lo sợ rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma sắp bị bắt cóc hoặc bị ám sát. Cuộc nổi dậy bị đàn áp dã man và Đức Đạt Lai Lạt Ma buộc phải trốn đi lưu vong.

Xem thêm: Cuộc nổi dậy Lhasa trên Wikipedia.

Ngày 10 tháng 3 hiện được người Tây Tạng và những người ủng hộ trên khắp thế giới kỷ niệm là Ngày Khởi nghĩa Quốc gia.

Cho đến ngày nay Tây Tạng vẫn là một quốc gia độc lập dưới sự chiếm đóng bất hợp pháp.

Sự chia cắt lãnh thổ

Lịch sử Tây Tạng bao gồm ba tỉnh, U-Tsang, Kham và Amdo, chiếm 1 triệu dặm vuông của cao nguyên Tây Tạng. Người Trung Quốc sát nhập toàn bộ Amdo và phần lớn Kham, hợp nhất vùng đất này vào các tỉnh giáp biên giới của Trung Quốc. Khu vực còn lại, tỉnh U-Tsang của Tây Tạng và một phần của Kham, đã được đổi tên thành “Khu tự trị Tây Tạng.”

“Khu tự trị Tây Tạng” có diện tích bằng 1/3 diện tích của Tây Tạng nguyên thủy, và chỉ riêng khu vực này mà Trung Quốc chính thức gọi là “Tây Tạng”. Điều này giải thích tại sao, mặc dù người Tây Tạng coi mình là 6 triệu người, nhưng người Trung Quốc thường đặt con số là 2 triệu.

Sự phá hoại của Cách Mạng Văn Hoá

Đến năm 1969, khoảng 6.250 tu viện, trung tâm văn hóa của đời sống Tây Tạng, đã bị phá hủy. Vào những năm 1980, một số được xây dựng lại và mở cửa trở lại, nhưng chính quyền Trung Quốc kiểm soát chặt chẽ các hoạt động trong các tu viện này, buộc các tăng ni phải xin giấy phép mới được gia nhập.

Kiến trúc Potala Palace
Kiến trúc Potala Palace

Các quy định nghiêm ngặt đòi hỏi một lời thề trung thành với lý tưởng cộng sản. Sự tôn sùng, và thậm chí cả những bức ảnh của Đức Đạt Lai Lạt Ma đều bị cấm cả trong và ngoài tu viện.

Nhà tù và trại lao động là một trong những phương thức bức hại phổ biến nhất. Nhiều người Tây Tạng đã bỏ mạng vì đói và lao động khổ sai khi bị giam cầm.

Xem thêm về: Cách mạng văn hoá Trung Quốc.

Dòng thời gian của lịch sử Tây Tạng

Nếu vẫn còn những điều muốn biết thêm về Tây Tạng, đừng bỏ qua những thông tin cơ bản này: Tây Tạng là gì và những điều nên biết.

Link nội dung: https://tcquoctesaigon.edu.vn/tay-tang-co-phai-la-mong-co-khong-a48116.html