Diễn đàn: Một số ý kiến về thiết kế kiến trúc trường học hiện nay

Ở Việt Nam, nhiều năm qua, kiến trúc trường học được xem là cứng nhắc có phần đơn điệu. Chương trình đổi mới giáo dục nhiều năm qua đã đem tới cho giới KTS những thách thức không nhỏ trong lĩnh vực nghiên cứu - thiết kế kiến trúc trường học. Trong số Chuyên đề này, với mong muốn đi tìm lời giải cho những câu hỏi khó cho thiết kế trường học, PV TCKT đã làm một cuộc khảo sát nhỏ, tham khảo ý kiến của các thầy cô giáo và các chuyên gia về kiến trúc - quy hoạch ở nhiều địa phương về thực trạng các trường học hiện nay. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc!

Thầy giáo Đỗ Hữu Trí - Nguyên Hiệu trưởng trường THCS Phương Mai

Một số vấn đề cần nghiên cứu trong kiến trúc trường học hiện nay

Tôi từng nhiều năm làm công tác đào tạo, ở đây, từ kinh nghiệm của tôi ở trường THCS Phương Mai - Hà Nội, xin được trao đổi một số vấn đề đối với không gian trường học như sau:

“Nên loại bỏ các mẫu lớp học được thiết kế sẵn”

Qua khảo sát ý kiến hàng chục giáo viên trực tiếp đứng lớp ở địa bàn tỉnh Đăk Lăk, phần lớn các ý kiến đều giống nhau:

“Cần có quy định riêng, phù hợp với văn hoá vùng, miền cho từng địa phương”

Tại Sóc Trăng, sau khi thực hiện Đề án Chương trình kiên cố hóa trường học của Chính phủ tại Quyết định số 159/2002/QĐ-TTg ngày 15/11/2020, dựa trên tập thiết kế mẫu được ban hành kèm theo Quyết định số 355/QĐ-BXD ngày 28/3/2003 của Bộ Xây dựng về việc Ban hành thiết kế mẫu nhà lớp học, trường học phục vụ Chương trình kiên cố hóa trường học của Chính phủ; năm 2008 Tỉnh đã giao Sở Xây dựng Sóc Trăng nghiên cứu, tham mưu và trình UBND tỉnh ban hành thiết kế mẫu: Nhà lớp học trường Mẫu giáo, trường Tiểu học và Trung học cơ sở áp dụng thống nhất trên toàn tỉnh.

Bước đầu áp dụng thiết kế mẫu thiết kế trường học do tỉnh ban hành có nhiều thuận lợi:

Tuy nhiên, trên thực tế cũng có nhiều hạn chế và khó khăn:

Theo tôi, để thực hiện việc này cần lưu ý một số vấn đề sau:

Một vài suy nghĩ về thiết kế trường học ở Long An

Long An có vị trí địa lý khá đặc biệt, là địa bàn chuyển tiếp từ vùng TP HCM đến Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Các tuyến giao thông thủy bộ nối 2 vùng này đều qua Long An. Nhiều địa phương của Long An giáp ranh với các quận, huyện của TP HCM như Cần Giuộc, Bến Lức và Đức Hòa.

Đến cuối năm 2019, Long An có 224 cơ sở giáo dục mầm non (MN) (192 công lập, 32 ngoài công lập); 207 trường tiểu học (TH) công lập; 138 trường trung học cơ sở công lập (THCS) (bao gồm 18 trường liên cấp (tiểu học và trung học cơ sở (TH&THCS)); 43 trường trung học phổ thông (THPT) (38 công lập, 5 ngoài công lập). Số trường đạt chuẩn quốc gia theo tiêu chí mới là 301/612 (49,18%), trong đó cấp mầm non đạt 97/224 (43,3%), tiểu học đạt 116/207 (56,04%), trung học cơ sở đạt 78/138 (56,52%), trung học phổ thông đạt 10/43 (23,26%). Tổng số phòng học của các cấp học là 8.736 (2019), với số trẻ và học sinh đến trường là 338.658 (#20% tổng số dân).

Dự kiến trong những năm sắp tới, số trẻ đến nhà trẻ và trẻ đến lớp mẫu giáo tăng, số học sinh tiểu học có khuynh hướng giảm, hoặc tăng không nhiều, nhưng số học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông sẽ tăng. Số phòng học kiên cố ở các cấp học cũng chênh lệch nhiều: Mầm non ≈43% số phòng học là kiên cố, tiểu học ≈74%, trung học cơ sở và trung học phổ thông ≈94%.

Từ năm 2015 đến nay, theo số liệu và tài tiệu thu thập được, hầu hết tất cả trường học các cấp khi đầu tư xây dựng đều có dự án riêng, các thiết kế mẫu chỉ sử dụng để tham khảo. Chúng tôi tổng hợp một số nội dung về thiết kế các trường học như sau:

Về bố trí mặt bằng các hạng mục và giải pháp kiến trúc: Hầu hết phòng học của các cấp học đều chọn theo tiêu chuẩn: TCVN 8794: 2011

Với qui định khá chặt chẽ theo tiêu chuẩn và sự kiểm tra của các cơ quan quản lý, thiết kế các trường học, mặc dù ở các địa phương khác nhau, vị trí khác nhau, nhưng diện tích các phòng học, phòng bộ môn, khu hành chánh, phục vụ sinh hoạt thường ít có sự chênh lệch, các đơn vị thiết kế sẽ thay đổi ít nhiều ở kích thước bước cột, chiều cao tầng nhà, kết cấu mái, bao che, chi tiết trang trí mặt đứng, kết cấu che nắng, vật liệu hoàn thiện,… nhằm tạo dáng vẻ riêng cho công trình thiết kế của địa phương nơi xây dựng.

Các công trình thuộc cấp học mầm non có xu hướng trang trí mặt đứng với màu sắc, hình dáng cửa sổ, lam, kết cấu che nắng đa dạng hơn, tạo hình ảnh bắt mắt, hấp dẫn cho trẻ mới lần đầu đến trường. Mặt khác, các công trình này có phần đóng góp của tư nhân, hoặc các nguồn vốn từ doanh nghiệp tài trợ, nên thiết kế có phần chú trọng hơn về mặt thẩm mỹ.

Các trường tiểu học và trung học thường có mặt đứng ít hấp dẫn, một số đơn vị thiết kế có tìm tòi hình dáng, màu sắc, kết cấu che nắng để tạo mặt đứng có hình ảnh đặc sắc hơn, nhưng không nhiều. Một phần do nguồn vốn ngân sách, các cơ quan quản lý và đơn vị thiết kế không muốn tốn nhiều thời gian nghiên cứu, giải trình (nếu có sự khác biệt, tăng vốn, hoặc vật liệu, kết cấu khác với thông thường,..).

Nghị quyết 29-NQ/TW, ngày 4/11/2013 của BCH TW Khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, có nêu mục tiêu cụ thể “Giáo dục mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1…, giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh” và nêu nhiều định hướng về giải pháp, nhiệm vụ cụ thể khác. Do vậy, theo chúng tôi nghĩ, trước hết, các tiêu chuẩn, qui chuẩn liên quan đến công trình giáo dục đã ban hành trước nghị quyết này, cần phải được rà soát, thay đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Nội dung các tiêu chuẩn TCVN 3907:2011 (Trường mầm non), TCVN 8793:2011 (Trường tiểu học), TCVN 8794:2011 (Trường trung học), đặc biệt là tiêu chuẩn TCVN 7491-2005 (Egonomi, Bố trí bàn ghế học sinh trong trường học) rất cần được điều chỉnh và bổ sung chi tiết hơn về vị trí, cách tiếp cận công trình, số học sinh /1000 dân, số trẻ trong nhóm, số học sinh trong 1 lớp, diện tích mặt bằng (cứng (xây dựng) và mềm (tự nhiên, đất, cây xanh, sân bãi không cứng hóa)) cho học sinh, diện tích các phòng học chuẩn, phòng bộ môn chuẩn, cách bố trí bàn ghế, trang thiết bị trong phòng học, phòng bộ môn, diện tích và bố trí trong các phòng thuộc khối quản lý, hệ thống kỹ thuật, đường ống, đường dây, cảnh quan kiến trúc, yêu cầu về thiết kế tích hợp, sử dụng tiết kiệm hiệu quả năng lượng, nước, vật liệu bền vững, … Các tiêu chuẩn mới cần tích hợp đầy đủ tất cả các lĩnh vực liên quan trong thiết kế và có gợi ý hướng dẫn chi tiết như các “guidelines” của các nước tiên tiến đã thực hiện. Ví dụ như bố trí các phòng học mẫu, các hạng mục mẫu của công trình, hướng dẫn chi tiết về hệ thống nước, điện, HVAC, cảnh quan kiến trúc, ….

Đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục đào tạo rất cần bắt đầu từ các tiêu chuẩn, quy chuẩn về cơ sở vật chất cho giáo dục, trong đó kiến trúc là một phần rất quan trọng. Từ những thay đổi căn bản ấy, hy vọng sẽ truyền cảm hứng nhiều hơn nữa cho sự sáng tạo của giới nghề nghiệp chuyên môn, tạo điều kiện hình thành cơ sở vật chất cho ngành giáo dục đổi mới phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.

“Các công trình trường học, các phương án thiết kế mẫu rất cần được “thi tuyển” một cách công bằng, khách quan”

Thái Nguyên là một tỉnh nằm về phía Đông Bắc Việt Nam. Với dân số khoảng 1,3 triệu người, Thái Nguyên ngoài hệ thống giáo dục phổ thông phủ khắp trên địa bàn với hơn 1000 trường từ mầm non đến trường PTTH thì tại Thái Nguyên còn là nơi đặt địa điểm của Đại học Thái Nguyên với 9 đơn vị thành viên; cùng với đó là hệ thống giáo dục chuyên nghiệp với trên 10 trường dạy nghề, trung cấp, cao đẳng của các Bộ, Ngành, địa phương và doanh nghiệp. Các trường này tập trung chủ yếu ở TP Thái Nguyên và TP Sông Công, lượng sinh viên học viên học chuyên nghiệp tại Thái Nguyên luôn ở ngưỡng trên 10 vạn người. Do đặc điểm đó, kiến trúc trường học ở Thái Nguyên tồn tại 2 loại hình: Trường chuyên nghiệp và trường phổ thông.

Cơ sở vật chất trường học ở Thái Nguyên theo đánh giá chung trong những năm qua đã được đầu tư cơ bản đủ điều kiện đáp ứng điều kiện học, giảng dạy và học tập ở mức trung bình theo yêu cầu. Nguồn đầu tư khu vực này chủ yếu là nguồn ngân sách, một số ít được đầu tư xây dựng do các doanh nghiệp và tư nhân kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục.

Nhìn chung, kiến trúc trường học Thái Nguyên mới ở dạng sản phẩm tư vấn, hướng tới sự tuân thủ về quy chuẩn, quy phạm, tiêu chuẩn, rất ít các công trình có dấu ấn của các KTS nghiên cứu, tìm tòi tạo ra tác phẩm, trừ một số trường hợp nhỏ lẻ, tập trung ở một vài dự án, chủ yếu từ nguồn vốn tư nhân. Không khó gì bắt gặp một ngôi trường giống nhau, giống ngôi trường đâu đó ở các địa phương khác được biểu hiện với một kiến trúc giảm thiểu, nặng về kỹ thuật, ít khi khai thác điểm mạnh về không gian địa hình là thế mạnh của địa phương, kiến trúc mất đi những cơ hội mà không phải khi nào cũng có.

Nguyên nhân căn bản của hiện tượng trên xuất phát từ nhận thức và hình thức lựa chọn phương án kiến trúc đầu tư khi công trình được xây dựng. Việc lập mẫu kiến trúc cho trường học chủ đầu tư không chú trọng đến hình thức kiến trúc mà lựa chọn chủ yếu theo các tiêu chí “kỹ thuật”; mẫu trường học PT ở Thái Nguyên thực tế đã được lựa chọn theo tiêu chí “kế hoạch - kỹ thuật”; đơn vị tư vấn lập “mẫu” thậm chí không có “KTS trường học”; các trường chuyên nghiệp thì chưa bao giờ được đầu tư tổng thể. Các hạng mục công trình thường được đầu tư theo “nhiệm kỳ” và chủ đầu tư thông thường là hiệu trưởng, người không có chuyên môn về kiến trúc là người có quyết định cao nhất đưa ra quyết định phương án kiến trúc, vai trò của KTS bị mờ nhạt. Vì vậy, kiến trúc các trường học ở Thái Nguyên được xây dựng phong phú và đa dạng, nhưng rất ít những công trình có sáng tác kiến trúc tốt.

Một nguyên nhân cũng rất quan trọng đó là vai trò của KTS khi thực hiện tác phẩm. Việc chạy theo ý thích của chủ đầu tư, chạy theo tiến độ và “lười” tìm tòi cũng không là cá biệt; một không gian địa hình có cao độ tự nhiên rất đẹp bị hạ thấp để đặt một công trình, có thể ví dụ điển hình như Nhà điều hành của Đại học Thái Nguyên. Công trình có ngôn ngữ “Viện thiết kế trường học” cũng không khó bắt gặp với trường chuyên nghiệp trên địa bàn. Hình ảnh nhà mẫu nhà 2÷3 tầng đơn điệu với mái tôn được xây cho trường phổ thông trên địa bàn sau khi san phẳng địa hình cũng là hình ảnh thường thấy. Thực tế cho thấy chúng ta xây nhiều nhưng nghèo về kiến trúc. Trừ những nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ quan là chúng ta cũng thiếu những KTS có năng lực, có trách nhiệm.

Chúng ta không còn nhiều cơ hội trong khu vực này, các KTS khi có cơ hội cần khẳng định mình tạo ra tác phẩm cho mình và cống hiến cho kiến trúc trường học tại địa phương. Trường hợp “Hoa rừng” của KTS Hoàng Thúc Hào làm ở Lũng Luông - Thái Nguyên,Trường liên cấp IRIS ở thành phố Thái Nguyên… là những ví dụ tốt, cần trân trọng và khích lệ.

Luật Kiến trúc sắp ra đời, rất cần các KTS và chủ đầu tư nhận thức về vai trò, về giới hạn của mình trong việc quyết định một phương án kiến trúc khi được thực hiện. Các công trình trường học, các phương án thiết kế mẫu rất cần được “thi tuyển” một cách công bằng, khách quan và cần lắm một hội đồng phải thật “Kiến trúc” để chọn ra những kiến trúc hiện đại và đậm sắc vùng miền.

Nhóm PV TCKT (Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 03-2020)

Link nội dung: https://tcquoctesaigon.edu.vn/kien-truc-truong-hoc-a42739.html